[Việt Nam] Gánh Nặng Cương Thường
Dinh của quan Thái úy Lê Niệm ở ngoài thành độ chừng một dặm. Dinh tuy không nguy nga cho lắm, nhưng mà chung quanh có lập một cảnh lâm viên đẹp đẽ vô song. Phía trước ông trồng cây ngay hàng, nhành sum sê, lá rậm rạp. Dưới gốc cây ông trồng những kỳ hoa dị thảo, trải bốn mùa đều thấy đơm bông. Phía sau, ông cũng trồng cây, nhưng mà ông còn dọn một ao hồ để nuôi cá trồng sen, đặng lúc buồn ông ra đó ngồi xem chơi mà uống rượu. Gần cái ao hồ ấy, ông lại có dọn một chỗ võ trường để mỗi buổi sớm mai ông ra đó tháo luyện nghề cung kiếm. Sớm mai nầy quan Thái úy thức dậy, ông thấy trời thanh bạch, chim trên nhành kêu lảnh lót, hoa trước ngõ trổ tốt tươi, ông mới xách cây giản đi ra võ trường mà tháo luyện. Ông dượt được vài đường giản, trong mình có hơi mệt, ông mới bước lại cái thạch bàn để dựa ao Hồ mà ngồi. Dưới hồ vởn vơ cá lội, trên bờ phưởng phất mùi hoa, ông nhắm cảnh cảm tình, nên kêu tên quân hầu biểu đem rượu cho ông uống giải muộn.
Ông ngồi uống rượn, ông nhớ tới việc vua phong cho ông Thân Nhơn Trung làm Tả Tướng quốc thì ông còn ấm ức trong lòng, ông hờn vua phong thưởng bất công, ông giận ông Thân thọ chức không biết hổ. Vì ông quen tánh khí ngang tàng cường bạo, ông tưởng dầu ông mắng ai, ông đánh ai thì cũng phải ôm đầu mà chịu, không được phép chống cự với ông, bởi vậy sự ông làm nhục cho thông gia hôm qua ông không thèm kể tới.
Ông vừa uống được vài chung rượn, thì có một tên quân chạy về thưa tằng có Công tử Thanh Tòng đến xin ra mắt ông. Ông gặc đầu biểu cho Công tử vào. Tên quân đi trở ra, thì ông ngồi suy nghĩ rằng: Thanh Tòng đi du học gần một năm nay nó về bao giờ mà qua đây thăm mình? Mà mình mới đánh cha nó hôm qua, bữa nay nó đến đây nói chuyện gì? Chắc là nó sợ mình giận cha nó rồi mình giận luôn tới nó, nên nó lật đật qua đây năn nỉ mà tạ tội chớ. gì?
Ông nghĩ như vậy rồi ông gặc đầu mà cười. Thanh Tòng bước vô khoanh tay cúi đầu làm lễ rồi khép nép thưa rằng: "Thưa nhạc phụ, con đi du học mới về, nên con lật đật qua đây kính dưng cho nhạc phụ bốn chữ: "khương ninh phước thọ".
Ông ngồi nhắm tướng Thanh Tòng rồi ông hỏi rằng:
- Công tử đi tìm thầy mà tập văn luyện võ thì phải lắm, sao lại về? Về bao giờ đó vậy?
- Thưa nhạc phụ, con mới về hồi chiều hôm qua. Vì cha mẹ con già yếu, con đi lâu ngày không biết ở nhà mạnh giỏi thể nào, con xốn xang trong lòng, nên con trở về mà thăm như cha mẹ con cho phép thì con mới dám đi nữa.
- Ờ, Công tử ở như vậy thì phải lắm. Ðạo làm con trước phải lo cho cha mẹ rồi sau sẽ lo cuộc công danh, chớ ham công danh mà bỏ cha mẹ thì ai gọi là có hiếu. Công tử qua thăm lão mà thôi, hay là còn muốn thưa việc chi nữa?
- Thưa nhạc phụ, con về đây trước là thăm nhạc phụ, sau con có một việc riêng muốn thưa với nhạc phụ nữa.
- Công tử muốn thưa việc chi?
- Dạ thưa, con về đến nhà, con nghe nói hôm qua đại triều, lịnh Bệ hạ xét công rồi gia phong quyền tước cho nghiêm đường con. Lúc bãi chầu nhạc phụ đã không khánh hạ như hàng bá quan, mà nhạc phụ lại còn đón đường mắng nhiếc đánh đập nghiêm đường con nữa. Dạ, thưa nhạc phụ, con nghĩ nhạc phụ với nghiêm đường của con có tình thông gia, nếu nghiêm đường của con may mà được Thánh thượng gia phong quyền tước, thì nhạc phụ mừng giùm lắm, chớ có lẽ nào lại ganh ghét. Huống chi nhạc phụ là nhà cung kiếm, còn nghiêm đường của con là đứng văn thần, có lẽ nào nhạc phụ lại dùng võ lực mà lấn lướt. Con sợ e người ta muốn hai họ chia lìa, người ta thêu dệt như vậy, nên con qua đây mà hỏi thăm lại cho chắc.
Quan Thái úy nghe hỏi thì ông và cười và biểu quân rót rượu. Ông uống một chung rồi ông đáp rằng:
- Những lời người ta học lại với công tử đó thì trúng hết chớ có thêu dệt thêm chút nào đâu. Nhưng mà gây sự ra cũng bởi có duyên cớ, chớ nào phải lão ỷ sức mạnh mà đánh quan lớn Bộ Lễ đâu.
- Dạ, bởi con mới về con nghe thấp thố, con không rõ nguyên nhơn làm sao: con nghĩ nhạc phụ không lẽ ỷ sức mạnh mà hiếp một nhà nho yếu đuối, bởi vậy con mới lật đật chạy qua đây mà hỏi thăm lại cho tỏ.
- Ớ công tử, nếu công tử muốn biết nguyên nhơn làm sao, thì để lão phân cho công tử nghe. Từ xưa đến nay, ở đời nào cũng vậy, quần thần ai có công lao nhiều thì mới được gia phong trật phẩm. Trong nước ta, đương buổi nầy đây, nếu kể công lao thì có ông quan nào mà hơn lão được. Công tử còn thơ ấu, công tử không hiểu, vậy để lão nói cho nhà nghe: Hồi năm... ờ ờ hồi năm Canh Dần, lúc ấy Tướng quốc Lê Lộng trấn thủ Lạng Sơn, người dưng sớ về triều mà tâu rằng nhà Minh sai đại tướng thống lãnh thập vạn hùng binh kéo qua quyết phá ải Nam Quan đặng tóm thâu đất Việt. Lịnh Bệ hạ được sớ liền ngự ra Cần Chánh điện, hội bá quan văn võ đủ mặt rồi lịnh Bệ hạ hỏi hàng văn ban có ông mô biết kế chi thối giặc được thì tâu cho lịnh Bệ hạ nghe. Ha hả! Nói tới đây lão bắt tức cười. Hàng văn ban ông nào râu cũng dài, vóc cũng tốt, áo cũng đẹp, mạo cũng cao, mà nghe lịnh Bệ hạ phán như vậy thì co đầu rút cổ gục mặt xuống đất, không có ai tâu một lời hết. Lúc ấy cũng có lão Thân Nhơn Trung, mà lão cũng nín khe, không biết kế chi mà dưng lên. Lịnh Bệ hạ thấy vậy bèn day qua hỏi hàng võ tướng có ai dám cầm binh ra đối địch với tướng nhà Minh giải cứu Nam Quan ải hay không?
Lão có ý chờ coi có ai dám phụng mạng hay không, té ra chư tướng ai nghe giặc nhà Minh cũng đều sợ, nên không ai dám xin đi hết. Lão lấy làm hổ thẹn giùm cho những kẻ râu mày ngôi cao lộc trọng, lão mới qùy trước bệ rồng mà xin cấp cho lão 5 muôn binh đặng lão ra Nam Quan mà diệt trừ Minh tướng. Bệ hạ khen lão rồi hạ chiếu cấp cho lão 5 muôn binh. Lão dẫn binh ra tới Nam Quan, thấy binh giặc đương vây quan ải rất ngặt. Lão xông vào trận, đánh phá binh giặc vỡ tan, lão lại giết được tướng soái nhà Minh nữa. Lão giải vây cho Nam Quan ải rồi mới kéo binh về triều phục lịnh. Từ ấy đến nay tướng Trung Quốc hết dám ló qua mà xâm lấn biên cương nữa. Công tử xét coi tài của lão cao, công của lão lớn là dường nào.
- Dạ, thưa nhạc phụ, tuy cơn thơ ấu, song con cũng có nghe tài của nhạc phụ cao, công của nhạc phụ lớn, chớ có lẽ nào con lại không biết.
Quan Thái úy rót thêm một chén rượn nữa mà uống rồi ông mới nói tiếp rằng:
- Công của lão có phải bao nhiêu đó mà thôi đâu, nếu lão ngồi lão kể tối ngày, sợ e cũng chưa hết được. Thôi, để lão nói sơ một việc nầy nữa cho công tử nghe: Giặc Bắc dẹp vừa xong, kế phía Nam, chúa Chiêm Thành là Trà Toàn khởi binh đánh phá đất Hóa Châu. Lịnh Bệ hạ hỏi bá quan ai biết kế chi mà chiêu phục Chiêm Thành Bọn văn thần, ông thì xin sai sứ đem lễ vật nghị ước cầu hòa, ông lại tâu rằng quân Chiêm Thành đói khát nên cướp giựt bậy bạ vậy thôi không thế lực bao nhiêu mà đến nỗi Bệ hạ lo sợ. Nghĩ đó mà coi, Việt Nam là nước đủ văn hiến, còn Chiêm Thành là quân còn thói dã man, sao lại khiến hạ mình mà cầu hòa với nó? Còn nói Chiêm Thành thế lực không đủ sợ, nó đã lấy hết xứ Thuận Hóa, kéo binh ra tới Nghệ An rồi, sao mà gọi rằng không có thế lực. Lão thấy bá quan vô tài vô trí lão nổi giận, lão mới xin lịnh Bệ hạ cấp binh cho lão đi bắt chúa Chiêm Thành, lịnh Bệ hạ bèn ngự giá thân chinh, cử lão làm tiên phuông đại tướng quân, kéo 20 vạn binh vào Thuận Hóa quét sạch quân Chiêm Thành, một lần cho tuyệt hậu hoạn. Trà Toàn liệu thế chống cự không nổi với binh ta, mới rút về nước mà giữ. Lịnh Bệ hạ đồn binh tại Thuận Hóa, sai lão đem 2 vạn quân đi đánh. Lão đánh lấy cửa Thị Nại. Trà Toàn kinh khủng rút quân về giữ kinh thành Ðồ Bàn. Lão kéo binh đuổi theo vây đánh, lão phá được thành Ðồ Bàn mà lại bắt được Trà Toàn nữa. Dẹp yên giặc Chiêm Thành rồi, qua năm Kỷ Hợi, Cầm Công là Tù trưởng xứ Bồn Man lại làm phản. Cũng một mình lão cầm binh đánh giết Cầm Công, rồi thâu phục xứ Bồn Man. Xét đó mà coi ngày nay lương dân an lạc, Bắc tịnh Nam thanh, có phải là nhờ sức lão hay không hứ?
- Thưa nhạc phụ, thiệt là nhờ sức nhạc phụ lắm chớ. Mà nhạc phụ có công lớn thì Thánh thượng đã phong cho nhạc phụ đến chức Thái úy con nghĩ cũng vừa rồi, không lẽ nhạc phụ còn trách Thánh thượng được.
- Hứ! Công cán như vậy mà phẩm tước như vầy. Vừa nỗi gì mà gọi rằng vừa. Mà mấy năm nay Bệ hạ im lìm, chẳng nói làm chi. Nay lịnh Bệ hạ xét công phong thưởng, lẽ thì bọn văn thần phải biết hổ mình vô dụng mà từ chối, phải nhớ công người cao dày mà khiêm nhường chớ có đâu loạn ly thì rút cổ co đầu, rồi khi phong thưởng lại giành quyền giành tước.
- Thưa nhạc phụ, nhạc phụ giận nên nhạc phụ nói cho đã nư giận đó mà thôi, chớ con nghĩ nước mà được Nam Bắc thái bình, trong ngoài yên ổn, tuy nhờ sức võ tướng nhưng mà cũng có công văn thần nữa chớ.
- Bọn văn thần làm việc gì mà gọi rằng có công? Hứ! Ðừng có nói công của văn thần, nói đến lão càng thêm giận nữa. Như thằng cha già Thân Nhơn Trung thuở nay nó giỏi có cái tài rung đùi ngâm thi, chớ giỏi gì?
- Thưa nhạc phụ nhẹ nhẹ một chút, kẻo tội nghiệp con!
- É, nhẹ nặng mà làm gì? Thằng cha già đó có tài gì mà dám lãnh chức Tả Tướng quốc? Ðã không biết hổ mà lại còn nói hơi cầu cao. Lão cho một đá hôm qua đó là dạy cho nó biết khôn, đặng nó hết đánh phách nữa.
Thanh Tòng nghe mấy lời ấy thì mặt đỏ phừng phừng, lại hai hàng nước mắt tuôn có giọt. Quan Thái úy liếc thấy ông tưởng chàng lo sợ về nỗi tơ duyên rời rã, chớ ông không dè chàng tức giận bởi vậy ông hỏi rằng:
- Công tử thấy lão giận, công tử sợ lão không gả con cho công tử phải hay không?
- Thưa nhạc phụ, việc đã gây ra đến thế nầy thì còn gì mà con dám mong mỏi tơ duyên nữa.
- Không. Lão giận là giận cha của công tử không biết điều chớ công tử có sao đâu mà sợ. Công tử đừng có buồn nếu công tử mà biết giữ cho trọn đạo rể con, thì có lẽ nào lão lại quên lời hẹn ước hay sao mà con sợ.
- Thưa nhạc phụ, nhạc phụ thương con, nhạc phụ nói như vậy, chớ con nghĩ nếu nhạc phụ với nghiêm đường của con mà không hòa, thì hai trẻ có thế nào hiệp được. Xin nhạc phụ xét lại giùm cho con.
- Lão đã nói gả con thì lão gả, còn biểu lão xét việc gì nữa?
- Thưa nhạc phụ, nếu nhạc phụ thiệt có lòng thương con muốn cho Tấn Tần hòa hiệp, thì con xin nhạc phụ phải làm sao cho bề trên đừng có hờn giận nhau nữa kìa, chớ hai cha thù nhau thì hai con có thế nào mà hiệp nhau được.
- Lão giận cha của công tử vô công mà đắc thưởng, nên lão nói như vậy đó mà thôi, chớ lão có thù oán chi đâu.
- Thưa nhạc phụ, dầu nhạc phụ không kết thù kết oán nhưng mà nghiêm đường của con bị nhục, thì có thế nào mà phui pha cho được. Con xin nhạc phụ, như muốn giải hòa, thì nhạc phụ chịu phiền qua dinh nghiêm đường của con mà dã lã cáo lỗi ít lời, cho nghiêm đường của con hết giận, được như vậy thì con đội ơn nhạc phụ lắm!
Quan Thái úy vừa nghe tới đó thì ông nổi giận, nên ông trợn mắt, vỗ bàn mà nạt rằng: "Bớ Thanh Tòng, mi biểu lão như muốn gả con cho mi, thì phải qua mà xin lỗi cha mi hay sao? Cha. chả, sao mi dám khi lão đến thế vậy hứ? Thử mi về mi biểu thằng cha mi qua đây mà lạy lão coi lão có hết giận hay chưa mà, sao mi lại dám thêu đòi như vậy?".
Thanh Tòng lắc đầu đáp rằng:
- Thưa nhạc phụ, con phân như vậy, là con muốn cho Tần Tấn một nhà, chớ nào phải con dám khinh khi nhạc phụ. Nhạc phụ đã không khứng thuận hòa, mà nhạc phụ còn nhục mạ nghiêm đường con thêm nữa,thế thì... con xin lỗi cùng nhạc phụ... con dằn nữa sao cho được?
- Mi không dằn được rồi mi làm sao ta?
- Thưa nhạc phụ, nhạc phụ cũng biết thảo thân là đạo trọng có lẽ nào con bít lỗ tai mà để cho người ta đánh chửi nghiêm đường con hay sao? Nghiêm đường con bị nhục, thì tự nhiên con phải lo báo thù. Thà là con chết, chớ sống mà thất hiếu với cha, sống làm sao được?
- Chà chà! Mi tính báo thù cho cha mi! Mi muốn tranh hơn thua với lão phải không? Hứ! Rất đỗi thằng cha mi, lão còn đánh gãy răng; mi là đồ con nít, tài cán gì mà nói phách?
- Con người có phải hễ lớn tuổi là hay đâu. Vậy chớ nhạc phụ quên câu tục ngữ "Khôn từ thuở nên ba, dại già đời cũng dại" hay sao?
Quan thái úy nghe mấy lời thất kỉnh ấy thì ông giận run. Ông vùng đứng đậy chụp lấy cây giản rồi nhắm ngay đầu Thanh Tòng mà đập. Thanh Tòng vừa rút cây độc kiếm mà đỡ vừa nhảy tránh một bên. Vì quan Thái úy đập mạnh quá, mà Thanh Tòng đỡ cũng cứng, nên cây giản bạt một bên rồi xàng xuống trúng thạch bàn, gãy làm hai đoạn. Quan Thái úy buông cán giản, nhảy lại muốn nắm cổ Thanh Tòng. Thanh Tòng gạt tay ông, rồi hai người đánh quyền với nhau, kẻ qua người lại như rồng bay phụng múa, già đánh trẻ đỡ, như lưỡng hổ giao Phong. Hai người đánh với nhau một hồi, quan Thái úy thấy Thanh Tòng càng đánh sức càng tráng kiện, ông khó hơn được, bởi vậy ông vừa giận vừa quyết giết cho được chàng, nên ông thừa dịp chàng xoàn qua gần gốc cây đại thọ, ông mới nhảy tới đá chàng. Nếu chàng dở, thì chắc cái chưn của ông sẽ đưa chàng vào cây đại thọ mà chết.
May chàng lanh lẹ, chàng thấy chỗ hiểm nghèo ấy, nên chàng trớ khỏi, rồi chàng bắt chưn của ông, chàng đẩy ra một cái, ông té ngửa, đập đầu vào thạch bàn, chàng vừa thấy ông té thì lật đật chạy lại đỡ ông, chẳng dè ông đụng thạch bàn bể đầu chết ngắt. Chàng kinh hãi, bèn ôm ông mà để nằm ngay trên thạch bàn.
Buổi sớm mai ấy, nàng Lệ Bích xẩn bẩn ở trong Phòng. Nàng đứng dựa cửa sổ ngó ra hoa viên, thấy trăm hoa đua nở dường như chào khách thuyền quyên, rồi lại thấy cặp se sẻ chéo chét trên nhành, dường như tỏ bày tâm sự, nàng sanh cảm hứng trong lòng, nên lấy viết mực tính làm một bài phú, trước tả tình chơi, sau thưởng cảnh luôn thể. Nàng vừa mới ngồi lại sửa soạn mà viết thì con thể nữ, tên Xuân Lan, hơ hải chạy vào báo rằng: "Bẩm công nương chẳng biết có việc chi bất bình, mà cụ lớn với Thân công tử đánh nhau sau lâm viên".
Nàng Lệ Bích nghe mấy lời thì biến sắc, quăng viết đứng dậy rồi chạy theo Xuân Lan mà ra lâm viên. Vừa ra tới võ trường, nàng thấy cha nằm trên thạch bàn thì sợ hãi, lật đật chạy riết lại ôm cha. Chừng nàng biết cha đã chết rồi, thì nàng đau đớn quá, nên đồng khóc nghe rất thảm thiết.
Thanh Tòng đứng nép dựa vào gốc cây, tay còn cầm cây độc kiếm, nhưng mà vì lỡ tay rồi chàng ăn năn quá nên hai hàng nước mắt chảy ròng ròng.
Lệ Bích ôm cha mà khóc một hồi, rồi nàng tức giận đứng dậy kêu quân hầu mà hỏi rằng: "Công tử Thanh Tòng đến đây mà giết cha ta phải không? Sao bây không bắt nó cho ta, bây lại thả cho nó chạy đi?"
Thanh Tòng bước ra quì trước mặt Lệ Bích, hai tay nắm cây kiếm mà đưa lên và nói rằng: "Tội tôi đáng chết. Xin nàng lấy cây kiếm nầy mà báo thù cho cha".
Lệ Bích thấy Thanh Tòng thì giận run, quyết giết kẻ thù mà rửa hờn, nên nàng giựt cây kiếm rồi đưa lên muốn chém đầu Thanh Tòng. Mà đưa cây kiếm lên rồi, nàng thấy Thanh Tòng qùy trơ trơ chịu chết, nàng lại bất nhẫn, không đành hạ thủ, nàng đứng ngó chàng trân trân, hai người nhìn nhau, cả hai đều rơi lụy, song không nói được một tiếng chi hết. Nàng ngó chàng một hồi rồi xui xị, quăng cây kiếm và kêu quân mà biểu đuổi Thanh Tòng ra khỏi cửa cho mau.
Thanh Tòng và khóc và lượm cây kiếm mà đi ra.
Lệ Bích hiệp với thể nữ mà đem thây cha vào dinh.